Là một cầu thủ, Kubala đi vào lịch sử CLB như một huyền thoại. Tuy nhiên, trên băng ghế chỉ đạo của đội bóng xứ Catalan, ông không có được những khoảng thời gian may mắn cho lắm, và rời chiếc ghế này khá sớm.
Kubala tên thật là László Kubala Stecz, sinh ngày 10/6/1927, mất ngày 17/5/2002, còn được gọi với cái tên Kubala Stécz László. Quê hương của ông là thành phố cổ kính Budapest. Mẹ của Kubala là một người phụ nữ Slovakia gốc Hungary, vốn là một công nhân làm việc trong nhà máy. Còn cha ông (người Slovakia gốc Ba Lan) là một người thợ nề. Kubala bắt đầu sự nghiệp chơi bóng không chuyên với Ganz TE, đội bóng của một nhà máy, chơi ở giải hạng 3 Hungary. Ở tuổi 11, Kubala đã chơi bóng cùng các đồng đội hơn mình 3 đến 5 tuổi. Bước sang tuổi 18, chàng trai trẻ đầy tài năng ký hợp đồng chính thức với Ferencváros TC, và ở đây anh đã trở thành đồng đội của Sándor Kocsis. Năm 1946 Kubala chuyển tới Czechoslovakia nhằm tránh nghĩa vụ quân sự, và ở đây anh chơi cho CLB ŠK Slovan Bratislava. Năm 1947 Kubala làm đám cưới với Anna Viola Daučík, con gái của Ferdinand Daučík, lúc đó Daucik còn đang là HLV của ŠK. Năm Kubala 1948 trở về Hungary, cũng không nằm ngoài mục đích tránh nghĩa vụ quân sự, và đầu quân cho Vasas SC. Từ đây, Kubala bắt đầu nổi danh như một tiền đạo xuất sắc nhất châu Âu vào thời điểm đó. Ông có khả năng kiến thiết tuyệt vời, cùng kỹ thuật giữ bóng khó ai bì kịp, kết hợp giữa kỹ năng và tốc độ. Kubala còn có khả năng dứt điểm điềm tĩnh, với sức mạnh trong những cú sút. Cuối cùng, cái mà người ta nhớ về Kubala nhiều nhất chính là những cú sút phạt. Ông là được lịch sử bóng đá thế giới ghi nhớ là một trong những tiền đạo có khả năng đá phạt hay nhất mọi thời đại, với độ chính xác và đường bóng như kẻ chỉ. Kubala đạt đến đỉnh cao sự nghiệp cùng FC Barcelona và kết thúc ở RCD Espanyol. Ông cũng từng chơi cho 3 ĐTQG khác nhau là Czechoslovakia, Hungary và Spain, ngoài ra Kubala cũng từng chơi cho tuyển Europe XI và the Catalan XI. Trong những năm 50 của thế kỷ 20, Kubala là một nhân tố quan trọng nhất trong sự thành công của FC Barcelona. Ông đã ra sân với màu áo Blaugrana 349 lần, ghi được 270 bàn thắng. Năm 1999, trong lễ kỷ niệm 100 năm thành lập CLB, Kubala được các culés bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại của CLB.
Sau khi Kubala giải nghệ cầu thủ, năm 1962, Enric Llaudet khuyên ông không nên rời khỏi CLB, và ở lại dẫn dắt Barcelona Football Players' School. Kubala trở thành HLV trưởng của đội 1 vào năm 1963 khi Laszi bị sa thải sau khi Barça bị loại khỏi Fair's Cup sau trận thua trước Red Star Belgrade. Mùa giải 1963-1964 Kubala đưa ra một quyết định gây ngạc nhiên, đó là chuyển sang làm HLV của RCD Espanyol, và làm việc cùng người bạn thân Alfredo Di Stefano. Sau đó ông đã dẫn dắt nhiều CLB tại TBN, trong đó có Murcia, Elche và Málaga. Kubala cũng từng huấn luyện cho ĐTQG Thuỵ Sỹ và 2 CLB ở Canada. Sau đó ông dẫn dắt ĐTQG TBN trong 2 năm. Mùa giải 1980-1981 ông trở lại CLB nhưng chỉ tại nhiệm trong 5 tháng ngắn ngủi.
Kubala mất vào 17/5/2002 do một căn bệnh lâu ngày đã gắn chặt ông với giường bệnh của bệnh viện thành phố Barcelona từ tháng 2 năm đó.
or post as a guest
Be the first to comment.