Kiet_Barca
Juvenil B
- Đầu quân
- 9/8/10
- Bài viết
- 154
- Được thích
- 2
- Điểm
- 18
- Tuổi
- 32
- Nơi ở
- Catalunya
- Website
- sptink36.fanbb.net
- Barça đồng
- 0
Góc A.C Milan
AC Milan
AC Milan(Associazione Calcio Milan S.p.A). Được thành lập vào năm 1899 (một trong số những CLB đầu tiên của nước Ý).
Trụ sở CLB: Via Filippo Turati 3, 20121 Milan
Chủ tịch hiện thời: Silvio Berlusconi
Phó chủ tịch và giám đốc điều hành: Adriano Galliani
HLV trưởng: Massimiliano Allegri
Associazione Calcio Milan S.p.A. (Công ty cổ phần Câu lạc bộ bóng đá Milan), thường được biết đến với tên gọi tắt A.C. Milan, AC Milan hay đơn giản là Milan, là một câu lạc bộ bóng đá của thành phố Milano, Ý được thành lập ngày 16 tháng 12 năm 1899. Tại mùa giải 2009-2010, đội bóng đang thi đấu tại Serie A, hạng đấu cao nhất của Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý và có hệ số UEFA, chỉ số dựa trên thành tích trong 5 mùa giải cấp châu lục gần nhất của câu lạc bộ, đứng thứ 5 ở châu Âu. Ở cấp độ quốc tế, Milan cùng Boca Juniors của Argentina hiện đang giữ kỷ lục về số danh hiệu quốc tế với 18 danh hiệu, trong đó có 4 Cúp Liên lục địa/Cúp thế giới các câu lạc bộ, 5 Siêu cúp châu Âu, 7 Cúp C1/UEFA Champions Leaguevà 2 Cúp các đội đoạt cúp.
Trong lịch sử của mình, A.C. Milan đã từng hai lần phải xuống chơi tại Serie B trong các năm 1980 và 1982, trong đó lần đầu tiên là do án phạt của Liên đoàn bóng đá Ý vì Milan có dính líu tới vụ bê bối dàn xếp tỉ sốTotonero. Vào đầu thập niên 2000 đội bóng còn dính líu tới một vụ bê bối bóng đá khác có tên Calciopoli. Trong lịch sử giải Serie A, Milan là câu lạc bộ duy nhất từng vô địch mà không để thua bất cứ trận đấu nào trong suốt mùa giải (mùa 1991-92). Đây cũng là câu lạc bộ đầu tiên từng có cầu thủ chiếm chọn cả ba vị trí đầu tiên của cuộc bình chọn Quả bóng vàng châu Âu, đó là vào hai năm 1988 khi bộ ba người Hà Lan của Milan là Marco van Basten, Ruud Gullit và Frank Rijkaard lần lượt xếp thứ nhất, nhì và ba trong cuộc bình chọn, và 1989 với các cầu thủ Marco van Basten, Franco Baresi và Frank Rijkaard (vào năm 2010, F.C. Barcelona đã đạt được thành tích tương tự). Trong một cuộc thăm dò của tạp chí World Soccer thực hiện vào năm 2007, đội hình A.C. Milan với bộ ba "Hà Lan bay" Gullit-Rijkaard-Van Basten dưới thời huấn luyện viên Arrigo Sacchiđược bầu chọn là đội hình cấp câu lạc bộ mạnh nhất trong lịch sử và tính chung chỉ thua đội hình các đội tuyển quốc gia Brasil năm 1970, Hà Lan năm 1974 và Hungary giai đoạn 1953-1954.
Theo cuộc thăm dò thực hiện ngày 20 tháng 8 năm 2008 của tờ nhật báo la Repubblica thì Milan là câu lạc bộ có nhiều cổ động viên thứ 3 ở Ý với 13,6%, xếp sau Juventus (32,5%) và đối thủ cùng thành phố của Milan là Inter (14%). Trong một nghiên cứu thực hiện cùng năm của công ty Đức Sport+Markt, Milan là đội bóng có nhiều cổ động viên thứ 5 tại châu Âu và là câu lạc bộ Ý đứng cao nhất trong danh sách này.
A.C. Milan hoạt động với tư cách một công ty cổ phần của Tập đoàn Fininvest kể từ năm 1986. Vị trí chủ tịch của câu lạc bộ hiện bị bỏ trống từ ngày 8 tháng 3 năm 2008 sau khi chủ tịch Milan là ông Silvio Berlusconi từ chức để đảm nhận cương vịThủ tướng Ý. Giữ quyền điều hành tạm thời của A.C. Milan hiện là phó chủ tịch câu lạc bộ, ông Adriano Galliani. Milan là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội các Câu lạc bộ Châu Âu (ECA), tổ chức thay thế cho nhóm G-14, với mục đích bảo vệ quyền lợi về kinh tế và thể thao cho các câu lạc bộ trong mối quan hệ với FIFA và UEFA.
Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ hai
Từ ý tưởng của một nhóm cổ động viên bóng đá người Anh và Ý sống tại Milano, A.C. Milan được khai sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1899 với tên ban đầu Milan Foot-Ball and Cricket Club (Câu lạc bộ bóng đá và cricket Milan). Sự ra đời của câu lạc bộ này được công bố chính thức trên tờ La Gazzetta dello Sport hai ngày sau, ngày thứ hai 18 tháng 12, theo đó chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ là một người Anh có tên Alfred Edwards, đồng sáng lập với Edwards còn có Barnett, Allison, Nathan, Davies và Herbert Kilpin.
Herbert Kilpin, huấn luyện viên và đội trưởng đầu tiên của Milan.
Tới tháng 1 năm 1900 thì câu lạc bộ được kết nạp vào Liên đoàn bóng đá Ý (tiếng Ý: Federazione Italiana Football) và tới tháng 4 thì đội có trận đấu chính thức đầu tiên, đó là cuộc đối đầu với câu lạc bộ FC Torinese tại vòng bán kết của Giải vô địch bóng đá Ý 1900 (Campionato 1900). Một tháng sau vào ngày 27 tháng 5, câu lạc bộ có danh hiệu đầu tiên, Medaglia del Re (Huy chương Nhà vua) sau chiến thắng 2-0 trước Juventus. Ngay trong năm thứ haitham gia giải bóng đá quốc gia, Milan đã giành chức vô địch sau khi cắt đứt mạch vô địch liên tiếp của câu lạc bộ Genoa bằng chiến thắng 3-0 trước đội bóng này trong trận chung kết. Hai chức vô địch giải hạng nhất (Prima Categoria) tiếp theo của Milan đến vào hai năm liên tiếp 1906 và 1907 nhờ chiến thắng trước Juventus tại trận chung kết năm 1906 và vị trí thứ nhất trong bảng chung kết năm 1907, xếp trên hai đội Torino và Andrea Doria. Chỉ một năm sau, nội bộ lục đục của đội bóng đã khiến một nhóm cầu thủ tách ra và thành lập một đội bóng mới lấy tên Football Club Internazionale Milano hay Inter Milan. Trong khi ngay ở mùa giải 1909-10, câu lạc bộ mới Inter đã ngay lập tức giành danh hiệu vô địch quốc gia thì ở giai đoạn tiếp theo Milan chỉ có vị trí cao nhất là thứ hai vào các mùa 1910-11 và 1911-12. Bốn năm sau, Giải vô địch bóng đá Ý phải tạm ngừng và thay thế vào đó là Cúp liên đoàn 1915-16 (Coppa Federale), tại giải đấu này Milan cuối cùng đã giành được chức vô địch sau khi xếp trên kình địch Juventus.
Năm 1919, Milan Foot-Ball and Cricket Club được đổi tên thành Milan Football Club (Câu lạc bộ bóng đá Milan). Cái tên mới cũng đánh dấu cho một giai đoạn thi đấu sa sút của đội bóng, tuy vẫn được thi đấu tại giải hạng nhất nhưng Milan thường kết thúc mùa giải chỉ với vị trí ở giữa bảng xếp hạng, thứ hạng cao nhất của họ chỉ là vị trí thứ ba vào các mùa 1937-38 (kém ba điểm so với đội vô địch Inter) và 1940-41 (kém năm điểm so với đội đầu bảng Bologna). Những ngôi sao hiếm hoi trong giai đoạn này của Milan là Aldo Boffi và Giuseppe Meazza, cầu thủ sau này được đặt tên cho sân vận động của Milan, Sân Giuseppe Meazza, vốn cũng được xây dựng trong giai đoạn này với tên ban đầu San Siro. Sân San Siro được xây dựng vào năm 1926 nhờ những nỗ lực của chủ tịch câu lạc bộ khi đó là Piero Pirelli. Cho tới năm 1948 thì đây là sân nhà của duy nhất Milan vì câu lạc bộ cùng thành phố Inter lấy sân Arena Civica làm sân nhà của họ.
Năm 1936 câu lạc bộ một lần nữa đổi tên từ Milan Football Club thành Milan Associazione Sportiva (Câu lạc bộ thể thao Milan), cái tên này bị "Ý hóa" theo lệnh của Chế độ Mussolini vào năm 1939 thành Associazione Calcio Milano (Câu lạc bộ bóng đá Milano). Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, câu lạc bộ quay lại với tên gọi tiếng Anh của mình, Associazione Calcio Milan (Câu lạc bộ bóng đá Milan) hay viết tắt là A.C. Milan và giữ nguyên nó cho tới ngày nay.
Thập niên 1950 và 1960
Trong mùa giải vô địch Ý đầu tiên sau chiến tranh, mùa 1946-47, Milan có được vị trí thứ tư, mùa tiếp theo đội bóng leo lên được vị trí thứ hai sau khi có được danh hiệu mang tính biểu tượng "vô địch mùa đông" (campione d'inverno). Tuy nhiên chức vô địch chỉ đến với đội bóng vào mùa giải 1950-51, chức vô địch này đã kết thúc cơn khát danh hiệu kéo dài tới 44 năm của A.C. Milan, đây cũng là năm mà câu lạc bộ có danh hiệu cấp châu lục đầu tiên, Cúp Latinh 1951. Đóng góp cho thành công này của đội bóng trước hết phải kể tới bộ ba cầu thủ người Thụy Điển Gunnar Gren, Gunnar Nordahl và Nils Liedholm hay được biết tới với tên Bộ ba Gre-No-Li, bên cạnh đó Milan còn có một huấn luyện viên xuất sắc ngườiHungary là ông Lajos Czeizler cùng thủ thành Lorenzo Buffon. Trong những năm tiếp theo, nhiều ngôi sao lớn bắt đầu gia nhập Milan nhưSchiaffino, Bagnoli, Radice và Cesare Maldini, đây là những cầu thủ đóng vai trò chính trong chiến thắng của A.C. Milan tại Cúp Latinh 1956 cùng ba danh hiệu vô địch quốc gia Ý các mùa giải 1954-55, 1956-57 và 1958-59. Năm 1958 lần đầu tiên Milan lọt vào tới trận chung kết Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu nhưng đội bóng đã để thua các nhà đương kim vô địch khi đó là câu lạc bộ Real Madrid với tỉ số 2-3 sau hai hiệp phụ, đây là chiếc cúp thứ ba trong số năm chiếc cúp liên tiếp tại giải đấu này của đội bóng thành Madrid.
Bộ ba Gre-No-Li huyền thoại của Milan.
Sau khi giành chức vô địch bóng đá Ý mùa giải 1961-62, đội bóng của huấn luyện viên Nereo Rocco cùng vua phá lưới Serie A José Altafini và tiền vệ triển vọng Gianni Rivera đã lọt vào trận chung kết Cúp C1 thứ hai vào năm 1963. Trong trận đấu trên sân Wembley này, Milan đã vượt qua câu lạc bộ Bồ Đào Nha Benfica của Eusébio với tỉ số 2-1, người đội trưởng nhận cúp của Milan sau trận đấu là Cesare Maldini. Sau chiến thắng này huấn luyện viên Nereo Rocco chuyển sang dẫn dắt Torino, người thay thế ông là Giuseppe Viani đã không thể giúp Milan giành Cúp Liên lục địa 1964, đội bóng đã để thua Santos của huyền thoại Pelé với tỉ số 0-1 trong trận đấu trên sân vận động Maracanã của Brasil. Đây cũng là mùa giải cuối cùng của chủ tịch Milan, ông Andrea Rizzoli, người đã có 9 năm thành công cùng đội bóng với bốn chức vô địch Ý, một Cúp Latinh, một Cúp C1 và việc xây dựng trung tâm tập huấn Milanello.
Sau khi Rizzoli từ chức, Milan lại rơi vào một giai đoạn khát danh hiệu khi đội bóng chỉ giành được duy nhất Cúp quốc gia Ý mùa giải 1966-67. Cùng lúc đó thì đội bóng đối thủ cùng thành phố của Milan là Inter lại liên tiếp có được những danh hiệu quốc gia và châu lục nhờ sự dẫn dắt của huấn luyện viên huyền thoại Helenio Herrera. Chỉ tới khi Nereo Rocco quay trở lại băng ghế chỉ đạo, Milan mới cải thiện được thành tích của mình với chức vô địch quốc gia thứ chín tại mùa giải 1967-68, trong năm này Milan còn giành Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu nhờ chiến thắng 2-0 trước Hamburger SV với một cú đúp của Kurt Hamrin. Trong năm tiếp theo Milan chỉ về đích thứ 2 tại Serie A mùa giải 1968-69, tuy nhiên họ lại có được chiếc Cúp C1 thứ hai sau chiến thắng đậm 4-1 trước câu lạc bộ Ajax của huấn luyện viên Rinus Michels.Tiếp đó với hai chiến thắng liên tiếp cả trên sân nhà và sân khách trước câu lạc bộ Estudiantes của Argentina, A.C. Milan đã giành được chiếc Cúp Liên lục địa đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ này. Bên cạnh các danh hiệu tập thể, tiền vệ Gianni Rivera của Milan còn giành Quả bóng vàng châu Âu năm 1969, đây là cầu thủ người Ý đầu tiên có được vinh dự này.
Thập niên 1970 và 1980
Trong ba mùa giải đầu tiên của thập niên 1970, A.C. Milan đều về đích thứ hai tại giải vô địch quốc gia sau khi bị lần lượt Inter (mùa 1970-71) và Juventus (mùa 1971-72, 1972-73) vượt qua. Đặc biệt mùa 1972-73 chứng kiến thất bại cay đắng của Milan khi họ bị Juventus qua mặt ở vòng đấu cuối cùng sau khi để thua ngay trên sân nhà trước Hellas Verona với tỉ số 3-5, trận đấu này sau đó đã đi vào lịch sử câu lạc bộ với cái tên "Fatal Verona" ("Verona chết chóc"). Tuy vậy những thất bại liên tiếp tại giải vô địch quốc gia của Milan được bù đắp phần nào bằng hai Cúp quốc gia Ý mùa 1971-72 và 1972-73 cùng một Cúp C2. Đây cũng là giai đoạn mà các cổ động viên của Milan ở khán đài phía Nam (curva sud) sân San Siro bắt đầu tổ chức thành các hội cổ động chuyên nghiệp, đó là Fossa dei Leoni (thành lập năm 1968, giải thể năm 2005), Commandos Tigre (thành lập 1967) và Brigate Rossonere (thành lập 1975).
Arrigo Sacchi và Franco Baresi cùng chiếc Cúp Liên lục địa năm 1989.
Giai đoạn 1973-1978 chứng kiến sự khủng hoảng của A.C. Milan khi chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm câu lạc bộ đã có tới 7 vị chủ tịch khác nhau, kết quả là Milan thường chỉ kết thúc mùa giải ở nửa dưới bảng xếp hạng. Tình hình chỉ thay đổi đôi chút từ mùa 1977-78 khi ngôi sao cũ của đội bóng là Nils Liedholm trở thành huấn luyện viên của Milan và đưa Milan tới vị trí thứ 4 tại Serie A đồng thời phát hiện được một hậu vệ trẻ triển vọng cho câu lạc bộ có tên Franco Baresi. Trong mùa giảitiếp theo, Milan có được danh hiệu vô địch quốc gia thứ 10 sau khi vượt qua Perugia của Castagner, đây cũng là mùa giải cuối cùng của Gianni Rivera cho câu lạc bộ của ông.
Thập niên 1980 mở đầu với câu lạc bộ bằng vụ bê bối dàn xếp tỉ số Totonero, hậu quả của vụ bê bối này là lần đầu tiên trong lịch sử A.C. Milan, đội bóng bị đánh tụt xuống Serie B tuy giành được chức vô địch Serie B 1980-1981 để lên chơi tại Serie A mùa giải 1981-82 nhưng ngay tại mùa giải này câu lạc bộ đã phải xuống hạng lần thứ hai sau khi chỉ giành được 24 điểm sau 30 vòng đấu. Một lần nữa Milan quay trở lại với Serie A chỉ sau một mùa giải tuy nhiên đội bóng vẫn chưa thể khôi phục lại vị thế trước kia, trong thời gian này Milan có thêm một hậu vệ tài năng mới, Paolo Maldini, người có trận đấu ra mắt vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 ở tuổi 16.
Cuối mùa giải 1985-86, một lần nữa A.C. Milan rơi vào khủng hoảng khi cuộc điều tra của Cảnh sát kinh tế Ý (Guardia di Finanza) đã phát hiện ra rằng câu lạc bộ đang ngập trong nợ nần và có nguy cơ phá sản. Ngày 20 tháng 2 năm 1986, doanh nhân người Milano Silvio Berlusconi thay thế chủ tịch câu lạc bộ Giuseppe Farina và lập tức thanh toán mọi nợ nần cho đội bóng. Với tiềm lực tài chính của mình, Berlusconi đã mang về cho Milan một loạt cầu thủ có chất lượng như Donadoni, Massaro, Galli và Galderisi. Tuy nhiên đội bóng của huấn luyện viên Liedholm chỉ về thứ 5 trong mùa giải mới và chủ tịch câu lạc bộ quyết định thay ông bằng một huấn luyện viên đang lên người Ý có tên Arrigo Sacchi. Gia nhập đội bóng cùng Sacchi còn có bộ đôi cầu thủ người Hà Lan Marco van Basten và Ruud Gullittrong đó Gullit vừa giành Quả bóng vàng châu Âu năm 1987. Sau khởi đầu không mấy thuận lợi, Sacchi đã đưa Milan tới chức vô địch quốc gia lần thứ 11 khi đội bóng vượt qua Napoli của Diego Maradona ở những vòng đấu cuối. Đây là chức vô địch mở ra giai đoạn hoàng kim của A.C. Milan với hai Cúp C1 liên tiếp ở mùa giải 1988-89, 1989-90, hai Siêu cúp châu Âu 1990, 1991, hai Cúp Liên lục địa 1990, 1991 và một Siêu cúp Ý 1989.
Từ thập niên 1990 đến nay
Chuỗi chiến thắng liên tiếp của Milan ở châu Âu dừng lại vào ngày 20 tháng 3 năm 1991. Trong trận tứ kết lượt về Cúp C1 trên sân củaOlympique de Marseille, Milan, khi đó đang bị dẫn 1-0, đã bỏ dở trận đấu theo lệnh của tổng giám đốc Adriano Galliani, theo Galliani thì do sân vận động có một dàn đèn bị hỏng nên các cầu thủ Milan không thể tiếp tục thi đấu do tầm nhìn hạn chế. Ngay cả sau khi dàn đèn chiếu sáng đã khôi phục hoạt động, đội bóng cũng không quay trở lại thi đấu tiếp và họ lập tức bị UEFA trừng phạt bằng việc xử thua trận tứ kết này đồng thời cấm Milan không được tham gia các giải đấu cấp châu lục một năm vì hành vi phi thể thao. Cuối mùa giải 1991 Sacchi rời Milan để đảm nhiệm vai trò dẫn dắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý, thế chỗ của ông ở câu lạc bộ là huấn luyện viên còn ít tên tuổi Fabio Capello. Ngay trong mùa giải đầu tiên tại Milan, Capello đã đưa đội bóng tới chức vô địch Serie A với thành tích không để thua một trận nào trong suốt mùa giải1991-92. Trong mùa giải sau đó, Milan tiếp tục bảo vệ thành công chức vô địch quốc gia, đội bóng cũng lọt vào trận chung kết Cúp C1, lúc này đã được đổi tên thành UEFA Champions League, tuy nhiên Milan đã để kình địch Marseille vượt qua với tỉ số 0-1. Mùa giải 1993-94 của Milan là một trong những mùa giải đáng nhớ nhất của câu lạc bộ khi Milan giành được cúp đúp chức vô địch Serie A và UEFA Champions League sau chiến thắng ấn tượng 4-0 trước Barcellona trong trận chung kết tại Athena. Một năm sau đó Milan lọt vào chung kết UEFA Champions League lần thứ ba liên tiếp nhưng trong cuộc đối đầu với đội bóng Ajax trẻ trung của Louis van Gaal, Milan đã thất thủ 1-0 và không thể bảo vệ chiếc cúp vô địch của mình, đội bóng còn thất bại tại trận tranh Cúp Liên lục địa khi để thua Vélez Sársfield của Argentina với tỉ số 0-2 tại Tokyo. Sau chức vô địch Serie A tại mùa giải 1995-96, chức vô địch thứ 4 trong vòng 5 mùa giải liên tiếp, Capello rời đội bóng và được thay thế bởi huấn luyện viên người Uruguay Oscar Tabárez.
Fabio Capello, người đem về bốn chức vô địch trong năm mùa giải làm huấn luyện viên cho Milan trong thập niên 1990.
Sự xuất hiện của Tabárez mở đầu cho một giai đoạn khủng hoảng ngắn của Milan khi huấn luyện viên này và kể cả hai người thay thế sau đó là Sacchi và Capello đều không thể đem lại thành công cho đội bóng. Sau 2 năm khủng hoảng, Milan của huấn luyện viên Alberto Zaccheroni giành lại chức vô địch Serie A mùa giải 1998-99 sau khi vượt qua Lazio ở giai đoạn cuối bằng bảy trận thắng liên tiếp ở bảy vòng đấu cuối cùng. Tuy nhiên hai mùa bóng tiếp theo không có danh hiệu đã khiến Zaccheroni mất chức, thay thế ông lần lượt là các huấn luyện viên tạm quyền Cesare Maldini và Mauro Tassotti trước khi huấn luyện viên người Thổ Nhĩ Kỳ Fatih Terim đảm nhiệm cương vị này vào đầu mùa bóng 2001-02. Những trận đấu không thành công liên tiếp đã khiến Terim nhanh chóng mất chức, lần này người được Berlusconi mời về làm huấn luyện viên cho A.C. Milan là Carlo Ancelotti, người từng giành Cúp C1 với đội bóng khi còn là tiền vệ trụ tại đây. Ngay ở mùa giải thứ hai dẫn dắt đội bóng, Ancelotti đã giúp Milan giành được danh hiệu vô địch châu Âu đầu tiên sau gần 10 năm chờ đợi, trong mùa bóng này Milan còn có chiếc Cúp quốc gia Ý đầu tiên của kỷ nguyên Berlusconi.
Carlo Ancelotti từng giành chức vô địch châu Âu cùng Milan ở cả cương vị cầu thủ và huấn luyện viên.
Thành công tại UEFA Champions League 2002-03 của Milan được nối tiếp bằng chức vô địch Serie A thứ 17 tại mùa bóng 2003-04 và chiếc Siêu cúp châu Âu. Trong mùa giải 2004-05 Milan một lần nữa lọt vào chung kết UEFA Champions League, tại trận đấu này họ đã dẫn trước đội bóng Liverpool của Anh tới 3-0 nhưng rồi để đối phương gỡ hòa và cuối cùng Milan phải chịu thất bại sau loạt đá luân lưu. Vào cuối mùa giải Serie A 2005-2006, Milan bị tố cáo có dính líu tới vụ bê bối dàn xếp tỉ số Calciopoli và bị trừ 30 điểm đồng nghĩa với việc tụt xuống vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng. Milan bắt đầu mùa giải 2006-07 với việc bị trừ thêm 8 điểm, phải tham gia vòng đấu loại thứ hai của UEFA Champions League và mất đi chân sút tốt nhất Andriy Shevchenko (chuyển sang Chelsea thi đấu). Tuy nhiên tới cuối mùa giải thì A.C. Milan vẫn lọt được tới trận chung kết UEFA Champions Leagues, một lần nữa đối thủ của họ là Liverpool nhưng trong trận tái đấu này hai bàn thắng của Inzaghi đã đem về cho Milan chiếc cúp vô địch châu Âu thứ bảy. Trong mùa giải tiếp theo Milan có được chiếc Siêu cúp châu Âu thứ năm trong lịch sử, đội bóng cũng giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ tuy nhiên đội bóng không vượt qua được vòng 2 UEFA Champions League và chỉ có được vị trí thứ 5 tại Serie A, đồng nghĩa với việc không được thi đấu ở giải đấu cao nhất châu lục năm tiếp theo. Kết thúc mùa giải 2008-09 ở vị trí thứ 3 tại Serie A, A.C. Milan có sự xáo trộn lớn khi người đội trưởng lâu năm của họ là Paolo Maldini tuyên bố giải nghệ trong khi cả huấn luyện viên Ancelotti cùng ngôi sao Kaká đều rời đội bóng, Ancelotti chuyển sang huấn luyện cho Chelsea còn Kaká tới Real Madrid với giá chuyển nhượng 67,2 triệu euro. Thay thế cho Ancelotti trong vị trí huấn luyện viên là Leonardo, một cựu cầu thủ của Milan và là người trước đó chưa từng có kinh nghiệm huấn luyện chuyên nghiệp.
Cầu thủ tiêu biểu: Paolo Maldini
Paolo Cesare Maldini (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1968 tại Milano, Ý) là một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Ý. Anh là con trai của Cesare Maldini – cựu cầu thủ của A.C. Milan và cựu huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Maldini là một hậu vệ và thường chơi ở vị trí cánh trái (tất nhiên anh cũng chơi tốt ở cả vị trí cánh phải). Ở những năm cuối sự nghiệp, anh thi đấu ở vị trí hậu vệ trung tâm. Trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình anh chỉ chơi cho một câu lạc bộ duy nhất đó là A.C. Milan và có số lần khoác áo nhiều nhất với 902 trận.
Maldini được yêu mến ở khắp nơi như một người hậu vệ vĩ đại và đã đạt đỉnh cao của sự nghiệp. Anh nổi tiếng là người đội trưởng có ảnh hưởng lớn, tính tình trầm tĩnh, cả trong lối chơi và là một hậu vệ hoàn mỹ. Tài năng của anh đã được khẳng định khi anh liên tiếp giành được nhiều giải thưởng quan trọng, có thể kể: Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới năm 1994 do World Soccerbình chọn, thành viên của đội hình thế giới FIFPro năm 2005, danh hiệu hậu vệ xuất sắc nhất UEFA Champions League 2004-2005, đứng thứ hai trong cuộc bình chọn đôi chân vàng năm 2005, một trong 10 cầu thủ xuất sắc nhất năm 2005 do FIFA bầu chọn.
Maldini gia nhập A.C. Milan từ năm 8 tuổi. Ngay lập tức, anh đã chứng minh được tài năng của mình và được các huấn luyện viên tin tưởng thường xuyên đá ở đội trẻ của Milan giai đoạn 1977-1984. Anh là đội trưởng đội trẻ Milan giai đoạn 1982-1984.
Trận đấu đầu tiên của Maldini tại Serie A là vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 đấu với Udinese Calcio. Từ đó đến nay anh có một sự nghiệp sáng chói, dành nhiều thành tích với câu lạc bộ Milan. Maldini là cầu thủ của đội hình "trong mơ" không thể bị đánh bại của A.C. Milan cuối thập kỷ 1980 đầu thập kỷ 1990 (cùng với Giovanni Galli, Mauro Tassotti, Franco Baresi, Alessandro Costacurta, Frank Rijkaard, Carlo Ancelotti, Angelo Colombo, Roberto Donadoni, Ruud Gullit và Marco Van Basten).
Ngày 20 tháng 01 năm 1986, Silvio Berlusconi, một doanh nhân trẻ tuổi và tài năng, quyết định mua lại A.C. Milan lúc đó đang ngập trong nợ nần và đứng trước nguy cơ phá sản. Đó là bước ngoặt trong lịch sử CLB. Thành công của "triều đại Berlusconi" gắn liền với sự nghiệp của chính Paolo Maldini.
Ban đầu Maldini được giao chiếc áo số 26 của Milan. Từ mùa giải 1986-1987, anh được giao chiếc áo số 3 cho vị trí hậu vệ trái và là số áo đấu theo anh cho tới hết sự nghiệp tại CLB. Hiện tại số áo 3 của Maldini đã trở thành số áo bất tử của CLB.
Maldini có được danh hiệu Scudetto ngay trong mùa giải 1988-1989. Anh giành chiếc cúp C1/UEFA Champions League đầu tiên tại sân Nou Camp năm 1989, sau khi đánh bại Steaua Bucureşti với tỷ số 4-0.
Từ năm 1997, Maldini đã được đeo băng đội trưởng của Milan, sau khi một huyền thoại khác của đội bóng là Franco Baresi giải nghệ. Thế hệ của Maldini là thế hệ thành công rực rỡ nhất trong lịch sử của A.C. Milan. Kể từ khi Maldini gia nhập đội hình chính thức của Milan vào năm 1984, A.C. Milan đã giành thêm được 7 Scudetto (trên tổng số 17 Scudetto của CLB), 1 Cúp quốc gia Ý, kỉ lục giành 5 Siêu cúp Quốc gia Italia (Inter Milan san bằng kỉ lục vào năm 2010), 5 Cúp C1/UEFA Champions League (trên tổng số 7 chiếc Cúp của CLB) cùng với đó là 5 Siêu cúp châu Âu, góp phần đưa Milan trở thành 1 trong những CLB vĩ đại nhất thế giới.
Một trong những bất ngờ lớn nhất của sự nghiệp Paolo Maldini cùng Milan đó là chung kết UEFA Champions League 1993-1994 khi thắng đậm đối thủ được đánh giá mạnh hơn là Dream-team F.C. Barcelona của Johan Cruyff tới 4-0.
Maldini cũng thiết lập thành tích mới tại chung kết giải UEFA Champions League 2004-2005 khi có bàn thắng chỉ sau 51 giây trong trận đấu với Liverpool F.C. tại Istanbul và là cầu thủ lớn tuổi nhất ghi được bàn thắng trong một trận chung kết Champions League. Anh đã vượt qua kỉ lục dự 5 trận chung kết cúp C1 của cầu thủ Gento (F.C. Real Madrid) với 6 lần (1989, 1990, 1994, 2003, 2005, 2007) và đạt kỉ lục giành được 5 chiếc cúp.
Maldini đã phá vỡ thành tích của Dino Zoff về số lần thi đấu tại Serie A, với lần thi đấu thứ 571 trong trận đấu với Treviso F.B.C.. Anh cũng chơi trận đấu thứ 800 của mình tại tất cả trận đấu cho A.C. Milan. Tháng 11 năm 2005, anh thông báo kế hoạch giã từ sự nghiệp thi đấu bóng đá chuyên nghiệp của mình sau khi kết thúc mùa giải 2006-2007, tuy nhiên anh có thể quyết định lại nếu anh vẫn duy trì được phong độ của mình. Hợp đồng của anh với Milan kết thúc năm 2008.
Cuối mùa bóng 2007-2008, một mùa bóng bê bết của A.C. Milan, trái với những phát biểu ban đầu của Maldini và dự đoán của báo giới, anh đã ký tiếp 1 hợp đồng với đội bóng sọc đỏ đen đến năm 2009 (41 tuổi).
Ngày 24 tháng 5 năm 2009, Paolo Maldini nói lời chia tay với cổ động viên ở sân San Siro của A.C. Milan sau khi đội bóng thua A.S.Roma 2-3. Ngày 31 tháng 5 năm 2009, Maldini chính thức tuyên bố giải nghệ sau khi A.C. Milan giành chiến thắng 2-0 ngay tại sân Artemio Franchi của ACF Fiorentina. Màn chia tay của Maldini nhận được sự ngưỡng mộ cùng rất nhiều tiếng vỗ tay từ khắp nơi trên khán đài.
(Sưu tầm)
PS: Từ nay topic này sẽ là nơi anh em Cule nói chung, fan khác nói riêng, thảo luận các vấn đề liên quan đến CLB giàu thành tích của Italia A.C Milan
AC Milan
AC Milan(Associazione Calcio Milan S.p.A). Được thành lập vào năm 1899 (một trong số những CLB đầu tiên của nước Ý).
Trụ sở CLB: Via Filippo Turati 3, 20121 Milan
Chủ tịch hiện thời: Silvio Berlusconi
Phó chủ tịch và giám đốc điều hành: Adriano Galliani
HLV trưởng: Massimiliano Allegri
Associazione Calcio Milan S.p.A. (Công ty cổ phần Câu lạc bộ bóng đá Milan), thường được biết đến với tên gọi tắt A.C. Milan, AC Milan hay đơn giản là Milan, là một câu lạc bộ bóng đá của thành phố Milano, Ý được thành lập ngày 16 tháng 12 năm 1899. Tại mùa giải 2009-2010, đội bóng đang thi đấu tại Serie A, hạng đấu cao nhất của Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý và có hệ số UEFA, chỉ số dựa trên thành tích trong 5 mùa giải cấp châu lục gần nhất của câu lạc bộ, đứng thứ 5 ở châu Âu. Ở cấp độ quốc tế, Milan cùng Boca Juniors của Argentina hiện đang giữ kỷ lục về số danh hiệu quốc tế với 18 danh hiệu, trong đó có 4 Cúp Liên lục địa/Cúp thế giới các câu lạc bộ, 5 Siêu cúp châu Âu, 7 Cúp C1/UEFA Champions Leaguevà 2 Cúp các đội đoạt cúp.
Trong lịch sử của mình, A.C. Milan đã từng hai lần phải xuống chơi tại Serie B trong các năm 1980 và 1982, trong đó lần đầu tiên là do án phạt của Liên đoàn bóng đá Ý vì Milan có dính líu tới vụ bê bối dàn xếp tỉ sốTotonero. Vào đầu thập niên 2000 đội bóng còn dính líu tới một vụ bê bối bóng đá khác có tên Calciopoli. Trong lịch sử giải Serie A, Milan là câu lạc bộ duy nhất từng vô địch mà không để thua bất cứ trận đấu nào trong suốt mùa giải (mùa 1991-92). Đây cũng là câu lạc bộ đầu tiên từng có cầu thủ chiếm chọn cả ba vị trí đầu tiên của cuộc bình chọn Quả bóng vàng châu Âu, đó là vào hai năm 1988 khi bộ ba người Hà Lan của Milan là Marco van Basten, Ruud Gullit và Frank Rijkaard lần lượt xếp thứ nhất, nhì và ba trong cuộc bình chọn, và 1989 với các cầu thủ Marco van Basten, Franco Baresi và Frank Rijkaard (vào năm 2010, F.C. Barcelona đã đạt được thành tích tương tự). Trong một cuộc thăm dò của tạp chí World Soccer thực hiện vào năm 2007, đội hình A.C. Milan với bộ ba "Hà Lan bay" Gullit-Rijkaard-Van Basten dưới thời huấn luyện viên Arrigo Sacchiđược bầu chọn là đội hình cấp câu lạc bộ mạnh nhất trong lịch sử và tính chung chỉ thua đội hình các đội tuyển quốc gia Brasil năm 1970, Hà Lan năm 1974 và Hungary giai đoạn 1953-1954.
Theo cuộc thăm dò thực hiện ngày 20 tháng 8 năm 2008 của tờ nhật báo la Repubblica thì Milan là câu lạc bộ có nhiều cổ động viên thứ 3 ở Ý với 13,6%, xếp sau Juventus (32,5%) và đối thủ cùng thành phố của Milan là Inter (14%). Trong một nghiên cứu thực hiện cùng năm của công ty Đức Sport+Markt, Milan là đội bóng có nhiều cổ động viên thứ 5 tại châu Âu và là câu lạc bộ Ý đứng cao nhất trong danh sách này.
A.C. Milan hoạt động với tư cách một công ty cổ phần của Tập đoàn Fininvest kể từ năm 1986. Vị trí chủ tịch của câu lạc bộ hiện bị bỏ trống từ ngày 8 tháng 3 năm 2008 sau khi chủ tịch Milan là ông Silvio Berlusconi từ chức để đảm nhận cương vịThủ tướng Ý. Giữ quyền điều hành tạm thời của A.C. Milan hiện là phó chủ tịch câu lạc bộ, ông Adriano Galliani. Milan là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội các Câu lạc bộ Châu Âu (ECA), tổ chức thay thế cho nhóm G-14, với mục đích bảo vệ quyền lợi về kinh tế và thể thao cho các câu lạc bộ trong mối quan hệ với FIFA và UEFA.
Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ hai
Từ ý tưởng của một nhóm cổ động viên bóng đá người Anh và Ý sống tại Milano, A.C. Milan được khai sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1899 với tên ban đầu Milan Foot-Ball and Cricket Club (Câu lạc bộ bóng đá và cricket Milan). Sự ra đời của câu lạc bộ này được công bố chính thức trên tờ La Gazzetta dello Sport hai ngày sau, ngày thứ hai 18 tháng 12, theo đó chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ là một người Anh có tên Alfred Edwards, đồng sáng lập với Edwards còn có Barnett, Allison, Nathan, Davies và Herbert Kilpin.
Herbert Kilpin, huấn luyện viên và đội trưởng đầu tiên của Milan.
Tới tháng 1 năm 1900 thì câu lạc bộ được kết nạp vào Liên đoàn bóng đá Ý (tiếng Ý: Federazione Italiana Football) và tới tháng 4 thì đội có trận đấu chính thức đầu tiên, đó là cuộc đối đầu với câu lạc bộ FC Torinese tại vòng bán kết của Giải vô địch bóng đá Ý 1900 (Campionato 1900). Một tháng sau vào ngày 27 tháng 5, câu lạc bộ có danh hiệu đầu tiên, Medaglia del Re (Huy chương Nhà vua) sau chiến thắng 2-0 trước Juventus. Ngay trong năm thứ haitham gia giải bóng đá quốc gia, Milan đã giành chức vô địch sau khi cắt đứt mạch vô địch liên tiếp của câu lạc bộ Genoa bằng chiến thắng 3-0 trước đội bóng này trong trận chung kết. Hai chức vô địch giải hạng nhất (Prima Categoria) tiếp theo của Milan đến vào hai năm liên tiếp 1906 và 1907 nhờ chiến thắng trước Juventus tại trận chung kết năm 1906 và vị trí thứ nhất trong bảng chung kết năm 1907, xếp trên hai đội Torino và Andrea Doria. Chỉ một năm sau, nội bộ lục đục của đội bóng đã khiến một nhóm cầu thủ tách ra và thành lập một đội bóng mới lấy tên Football Club Internazionale Milano hay Inter Milan. Trong khi ngay ở mùa giải 1909-10, câu lạc bộ mới Inter đã ngay lập tức giành danh hiệu vô địch quốc gia thì ở giai đoạn tiếp theo Milan chỉ có vị trí cao nhất là thứ hai vào các mùa 1910-11 và 1911-12. Bốn năm sau, Giải vô địch bóng đá Ý phải tạm ngừng và thay thế vào đó là Cúp liên đoàn 1915-16 (Coppa Federale), tại giải đấu này Milan cuối cùng đã giành được chức vô địch sau khi xếp trên kình địch Juventus.
Năm 1919, Milan Foot-Ball and Cricket Club được đổi tên thành Milan Football Club (Câu lạc bộ bóng đá Milan). Cái tên mới cũng đánh dấu cho một giai đoạn thi đấu sa sút của đội bóng, tuy vẫn được thi đấu tại giải hạng nhất nhưng Milan thường kết thúc mùa giải chỉ với vị trí ở giữa bảng xếp hạng, thứ hạng cao nhất của họ chỉ là vị trí thứ ba vào các mùa 1937-38 (kém ba điểm so với đội vô địch Inter) và 1940-41 (kém năm điểm so với đội đầu bảng Bologna). Những ngôi sao hiếm hoi trong giai đoạn này của Milan là Aldo Boffi và Giuseppe Meazza, cầu thủ sau này được đặt tên cho sân vận động của Milan, Sân Giuseppe Meazza, vốn cũng được xây dựng trong giai đoạn này với tên ban đầu San Siro. Sân San Siro được xây dựng vào năm 1926 nhờ những nỗ lực của chủ tịch câu lạc bộ khi đó là Piero Pirelli. Cho tới năm 1948 thì đây là sân nhà của duy nhất Milan vì câu lạc bộ cùng thành phố Inter lấy sân Arena Civica làm sân nhà của họ.
Năm 1936 câu lạc bộ một lần nữa đổi tên từ Milan Football Club thành Milan Associazione Sportiva (Câu lạc bộ thể thao Milan), cái tên này bị "Ý hóa" theo lệnh của Chế độ Mussolini vào năm 1939 thành Associazione Calcio Milano (Câu lạc bộ bóng đá Milano). Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, câu lạc bộ quay lại với tên gọi tiếng Anh của mình, Associazione Calcio Milan (Câu lạc bộ bóng đá Milan) hay viết tắt là A.C. Milan và giữ nguyên nó cho tới ngày nay.
Thập niên 1950 và 1960
Trong mùa giải vô địch Ý đầu tiên sau chiến tranh, mùa 1946-47, Milan có được vị trí thứ tư, mùa tiếp theo đội bóng leo lên được vị trí thứ hai sau khi có được danh hiệu mang tính biểu tượng "vô địch mùa đông" (campione d'inverno). Tuy nhiên chức vô địch chỉ đến với đội bóng vào mùa giải 1950-51, chức vô địch này đã kết thúc cơn khát danh hiệu kéo dài tới 44 năm của A.C. Milan, đây cũng là năm mà câu lạc bộ có danh hiệu cấp châu lục đầu tiên, Cúp Latinh 1951. Đóng góp cho thành công này của đội bóng trước hết phải kể tới bộ ba cầu thủ người Thụy Điển Gunnar Gren, Gunnar Nordahl và Nils Liedholm hay được biết tới với tên Bộ ba Gre-No-Li, bên cạnh đó Milan còn có một huấn luyện viên xuất sắc ngườiHungary là ông Lajos Czeizler cùng thủ thành Lorenzo Buffon. Trong những năm tiếp theo, nhiều ngôi sao lớn bắt đầu gia nhập Milan nhưSchiaffino, Bagnoli, Radice và Cesare Maldini, đây là những cầu thủ đóng vai trò chính trong chiến thắng của A.C. Milan tại Cúp Latinh 1956 cùng ba danh hiệu vô địch quốc gia Ý các mùa giải 1954-55, 1956-57 và 1958-59. Năm 1958 lần đầu tiên Milan lọt vào tới trận chung kết Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu nhưng đội bóng đã để thua các nhà đương kim vô địch khi đó là câu lạc bộ Real Madrid với tỉ số 2-3 sau hai hiệp phụ, đây là chiếc cúp thứ ba trong số năm chiếc cúp liên tiếp tại giải đấu này của đội bóng thành Madrid.
Bộ ba Gre-No-Li huyền thoại của Milan.
Sau khi giành chức vô địch bóng đá Ý mùa giải 1961-62, đội bóng của huấn luyện viên Nereo Rocco cùng vua phá lưới Serie A José Altafini và tiền vệ triển vọng Gianni Rivera đã lọt vào trận chung kết Cúp C1 thứ hai vào năm 1963. Trong trận đấu trên sân Wembley này, Milan đã vượt qua câu lạc bộ Bồ Đào Nha Benfica của Eusébio với tỉ số 2-1, người đội trưởng nhận cúp của Milan sau trận đấu là Cesare Maldini. Sau chiến thắng này huấn luyện viên Nereo Rocco chuyển sang dẫn dắt Torino, người thay thế ông là Giuseppe Viani đã không thể giúp Milan giành Cúp Liên lục địa 1964, đội bóng đã để thua Santos của huyền thoại Pelé với tỉ số 0-1 trong trận đấu trên sân vận động Maracanã của Brasil. Đây cũng là mùa giải cuối cùng của chủ tịch Milan, ông Andrea Rizzoli, người đã có 9 năm thành công cùng đội bóng với bốn chức vô địch Ý, một Cúp Latinh, một Cúp C1 và việc xây dựng trung tâm tập huấn Milanello.
Sau khi Rizzoli từ chức, Milan lại rơi vào một giai đoạn khát danh hiệu khi đội bóng chỉ giành được duy nhất Cúp quốc gia Ý mùa giải 1966-67. Cùng lúc đó thì đội bóng đối thủ cùng thành phố của Milan là Inter lại liên tiếp có được những danh hiệu quốc gia và châu lục nhờ sự dẫn dắt của huấn luyện viên huyền thoại Helenio Herrera. Chỉ tới khi Nereo Rocco quay trở lại băng ghế chỉ đạo, Milan mới cải thiện được thành tích của mình với chức vô địch quốc gia thứ chín tại mùa giải 1967-68, trong năm này Milan còn giành Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu nhờ chiến thắng 2-0 trước Hamburger SV với một cú đúp của Kurt Hamrin. Trong năm tiếp theo Milan chỉ về đích thứ 2 tại Serie A mùa giải 1968-69, tuy nhiên họ lại có được chiếc Cúp C1 thứ hai sau chiến thắng đậm 4-1 trước câu lạc bộ Ajax của huấn luyện viên Rinus Michels.Tiếp đó với hai chiến thắng liên tiếp cả trên sân nhà và sân khách trước câu lạc bộ Estudiantes của Argentina, A.C. Milan đã giành được chiếc Cúp Liên lục địa đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ này. Bên cạnh các danh hiệu tập thể, tiền vệ Gianni Rivera của Milan còn giành Quả bóng vàng châu Âu năm 1969, đây là cầu thủ người Ý đầu tiên có được vinh dự này.
Thập niên 1970 và 1980
Trong ba mùa giải đầu tiên của thập niên 1970, A.C. Milan đều về đích thứ hai tại giải vô địch quốc gia sau khi bị lần lượt Inter (mùa 1970-71) và Juventus (mùa 1971-72, 1972-73) vượt qua. Đặc biệt mùa 1972-73 chứng kiến thất bại cay đắng của Milan khi họ bị Juventus qua mặt ở vòng đấu cuối cùng sau khi để thua ngay trên sân nhà trước Hellas Verona với tỉ số 3-5, trận đấu này sau đó đã đi vào lịch sử câu lạc bộ với cái tên "Fatal Verona" ("Verona chết chóc"). Tuy vậy những thất bại liên tiếp tại giải vô địch quốc gia của Milan được bù đắp phần nào bằng hai Cúp quốc gia Ý mùa 1971-72 và 1972-73 cùng một Cúp C2. Đây cũng là giai đoạn mà các cổ động viên của Milan ở khán đài phía Nam (curva sud) sân San Siro bắt đầu tổ chức thành các hội cổ động chuyên nghiệp, đó là Fossa dei Leoni (thành lập năm 1968, giải thể năm 2005), Commandos Tigre (thành lập 1967) và Brigate Rossonere (thành lập 1975).
Arrigo Sacchi và Franco Baresi cùng chiếc Cúp Liên lục địa năm 1989.
Giai đoạn 1973-1978 chứng kiến sự khủng hoảng của A.C. Milan khi chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm câu lạc bộ đã có tới 7 vị chủ tịch khác nhau, kết quả là Milan thường chỉ kết thúc mùa giải ở nửa dưới bảng xếp hạng. Tình hình chỉ thay đổi đôi chút từ mùa 1977-78 khi ngôi sao cũ của đội bóng là Nils Liedholm trở thành huấn luyện viên của Milan và đưa Milan tới vị trí thứ 4 tại Serie A đồng thời phát hiện được một hậu vệ trẻ triển vọng cho câu lạc bộ có tên Franco Baresi. Trong mùa giảitiếp theo, Milan có được danh hiệu vô địch quốc gia thứ 10 sau khi vượt qua Perugia của Castagner, đây cũng là mùa giải cuối cùng của Gianni Rivera cho câu lạc bộ của ông.
Thập niên 1980 mở đầu với câu lạc bộ bằng vụ bê bối dàn xếp tỉ số Totonero, hậu quả của vụ bê bối này là lần đầu tiên trong lịch sử A.C. Milan, đội bóng bị đánh tụt xuống Serie B tuy giành được chức vô địch Serie B 1980-1981 để lên chơi tại Serie A mùa giải 1981-82 nhưng ngay tại mùa giải này câu lạc bộ đã phải xuống hạng lần thứ hai sau khi chỉ giành được 24 điểm sau 30 vòng đấu. Một lần nữa Milan quay trở lại với Serie A chỉ sau một mùa giải tuy nhiên đội bóng vẫn chưa thể khôi phục lại vị thế trước kia, trong thời gian này Milan có thêm một hậu vệ tài năng mới, Paolo Maldini, người có trận đấu ra mắt vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 ở tuổi 16.
Cuối mùa giải 1985-86, một lần nữa A.C. Milan rơi vào khủng hoảng khi cuộc điều tra của Cảnh sát kinh tế Ý (Guardia di Finanza) đã phát hiện ra rằng câu lạc bộ đang ngập trong nợ nần và có nguy cơ phá sản. Ngày 20 tháng 2 năm 1986, doanh nhân người Milano Silvio Berlusconi thay thế chủ tịch câu lạc bộ Giuseppe Farina và lập tức thanh toán mọi nợ nần cho đội bóng. Với tiềm lực tài chính của mình, Berlusconi đã mang về cho Milan một loạt cầu thủ có chất lượng như Donadoni, Massaro, Galli và Galderisi. Tuy nhiên đội bóng của huấn luyện viên Liedholm chỉ về thứ 5 trong mùa giải mới và chủ tịch câu lạc bộ quyết định thay ông bằng một huấn luyện viên đang lên người Ý có tên Arrigo Sacchi. Gia nhập đội bóng cùng Sacchi còn có bộ đôi cầu thủ người Hà Lan Marco van Basten và Ruud Gullittrong đó Gullit vừa giành Quả bóng vàng châu Âu năm 1987. Sau khởi đầu không mấy thuận lợi, Sacchi đã đưa Milan tới chức vô địch quốc gia lần thứ 11 khi đội bóng vượt qua Napoli của Diego Maradona ở những vòng đấu cuối. Đây là chức vô địch mở ra giai đoạn hoàng kim của A.C. Milan với hai Cúp C1 liên tiếp ở mùa giải 1988-89, 1989-90, hai Siêu cúp châu Âu 1990, 1991, hai Cúp Liên lục địa 1990, 1991 và một Siêu cúp Ý 1989.
Từ thập niên 1990 đến nay
Chuỗi chiến thắng liên tiếp của Milan ở châu Âu dừng lại vào ngày 20 tháng 3 năm 1991. Trong trận tứ kết lượt về Cúp C1 trên sân củaOlympique de Marseille, Milan, khi đó đang bị dẫn 1-0, đã bỏ dở trận đấu theo lệnh của tổng giám đốc Adriano Galliani, theo Galliani thì do sân vận động có một dàn đèn bị hỏng nên các cầu thủ Milan không thể tiếp tục thi đấu do tầm nhìn hạn chế. Ngay cả sau khi dàn đèn chiếu sáng đã khôi phục hoạt động, đội bóng cũng không quay trở lại thi đấu tiếp và họ lập tức bị UEFA trừng phạt bằng việc xử thua trận tứ kết này đồng thời cấm Milan không được tham gia các giải đấu cấp châu lục một năm vì hành vi phi thể thao. Cuối mùa giải 1991 Sacchi rời Milan để đảm nhiệm vai trò dẫn dắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý, thế chỗ của ông ở câu lạc bộ là huấn luyện viên còn ít tên tuổi Fabio Capello. Ngay trong mùa giải đầu tiên tại Milan, Capello đã đưa đội bóng tới chức vô địch Serie A với thành tích không để thua một trận nào trong suốt mùa giải1991-92. Trong mùa giải sau đó, Milan tiếp tục bảo vệ thành công chức vô địch quốc gia, đội bóng cũng lọt vào trận chung kết Cúp C1, lúc này đã được đổi tên thành UEFA Champions League, tuy nhiên Milan đã để kình địch Marseille vượt qua với tỉ số 0-1. Mùa giải 1993-94 của Milan là một trong những mùa giải đáng nhớ nhất của câu lạc bộ khi Milan giành được cúp đúp chức vô địch Serie A và UEFA Champions League sau chiến thắng ấn tượng 4-0 trước Barcellona trong trận chung kết tại Athena. Một năm sau đó Milan lọt vào chung kết UEFA Champions League lần thứ ba liên tiếp nhưng trong cuộc đối đầu với đội bóng Ajax trẻ trung của Louis van Gaal, Milan đã thất thủ 1-0 và không thể bảo vệ chiếc cúp vô địch của mình, đội bóng còn thất bại tại trận tranh Cúp Liên lục địa khi để thua Vélez Sársfield của Argentina với tỉ số 0-2 tại Tokyo. Sau chức vô địch Serie A tại mùa giải 1995-96, chức vô địch thứ 4 trong vòng 5 mùa giải liên tiếp, Capello rời đội bóng và được thay thế bởi huấn luyện viên người Uruguay Oscar Tabárez.
Fabio Capello, người đem về bốn chức vô địch trong năm mùa giải làm huấn luyện viên cho Milan trong thập niên 1990.
Sự xuất hiện của Tabárez mở đầu cho một giai đoạn khủng hoảng ngắn của Milan khi huấn luyện viên này và kể cả hai người thay thế sau đó là Sacchi và Capello đều không thể đem lại thành công cho đội bóng. Sau 2 năm khủng hoảng, Milan của huấn luyện viên Alberto Zaccheroni giành lại chức vô địch Serie A mùa giải 1998-99 sau khi vượt qua Lazio ở giai đoạn cuối bằng bảy trận thắng liên tiếp ở bảy vòng đấu cuối cùng. Tuy nhiên hai mùa bóng tiếp theo không có danh hiệu đã khiến Zaccheroni mất chức, thay thế ông lần lượt là các huấn luyện viên tạm quyền Cesare Maldini và Mauro Tassotti trước khi huấn luyện viên người Thổ Nhĩ Kỳ Fatih Terim đảm nhiệm cương vị này vào đầu mùa bóng 2001-02. Những trận đấu không thành công liên tiếp đã khiến Terim nhanh chóng mất chức, lần này người được Berlusconi mời về làm huấn luyện viên cho A.C. Milan là Carlo Ancelotti, người từng giành Cúp C1 với đội bóng khi còn là tiền vệ trụ tại đây. Ngay ở mùa giải thứ hai dẫn dắt đội bóng, Ancelotti đã giúp Milan giành được danh hiệu vô địch châu Âu đầu tiên sau gần 10 năm chờ đợi, trong mùa bóng này Milan còn có chiếc Cúp quốc gia Ý đầu tiên của kỷ nguyên Berlusconi.
Carlo Ancelotti từng giành chức vô địch châu Âu cùng Milan ở cả cương vị cầu thủ và huấn luyện viên.
Thành công tại UEFA Champions League 2002-03 của Milan được nối tiếp bằng chức vô địch Serie A thứ 17 tại mùa bóng 2003-04 và chiếc Siêu cúp châu Âu. Trong mùa giải 2004-05 Milan một lần nữa lọt vào chung kết UEFA Champions League, tại trận đấu này họ đã dẫn trước đội bóng Liverpool của Anh tới 3-0 nhưng rồi để đối phương gỡ hòa và cuối cùng Milan phải chịu thất bại sau loạt đá luân lưu. Vào cuối mùa giải Serie A 2005-2006, Milan bị tố cáo có dính líu tới vụ bê bối dàn xếp tỉ số Calciopoli và bị trừ 30 điểm đồng nghĩa với việc tụt xuống vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng. Milan bắt đầu mùa giải 2006-07 với việc bị trừ thêm 8 điểm, phải tham gia vòng đấu loại thứ hai của UEFA Champions League và mất đi chân sút tốt nhất Andriy Shevchenko (chuyển sang Chelsea thi đấu). Tuy nhiên tới cuối mùa giải thì A.C. Milan vẫn lọt được tới trận chung kết UEFA Champions Leagues, một lần nữa đối thủ của họ là Liverpool nhưng trong trận tái đấu này hai bàn thắng của Inzaghi đã đem về cho Milan chiếc cúp vô địch châu Âu thứ bảy. Trong mùa giải tiếp theo Milan có được chiếc Siêu cúp châu Âu thứ năm trong lịch sử, đội bóng cũng giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ tuy nhiên đội bóng không vượt qua được vòng 2 UEFA Champions League và chỉ có được vị trí thứ 5 tại Serie A, đồng nghĩa với việc không được thi đấu ở giải đấu cao nhất châu lục năm tiếp theo. Kết thúc mùa giải 2008-09 ở vị trí thứ 3 tại Serie A, A.C. Milan có sự xáo trộn lớn khi người đội trưởng lâu năm của họ là Paolo Maldini tuyên bố giải nghệ trong khi cả huấn luyện viên Ancelotti cùng ngôi sao Kaká đều rời đội bóng, Ancelotti chuyển sang huấn luyện cho Chelsea còn Kaká tới Real Madrid với giá chuyển nhượng 67,2 triệu euro. Thay thế cho Ancelotti trong vị trí huấn luyện viên là Leonardo, một cựu cầu thủ của Milan và là người trước đó chưa từng có kinh nghiệm huấn luyện chuyên nghiệp.
Cầu thủ tiêu biểu: Paolo Maldini
Paolo Cesare Maldini (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1968 tại Milano, Ý) là một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Ý. Anh là con trai của Cesare Maldini – cựu cầu thủ của A.C. Milan và cựu huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Maldini là một hậu vệ và thường chơi ở vị trí cánh trái (tất nhiên anh cũng chơi tốt ở cả vị trí cánh phải). Ở những năm cuối sự nghiệp, anh thi đấu ở vị trí hậu vệ trung tâm. Trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình anh chỉ chơi cho một câu lạc bộ duy nhất đó là A.C. Milan và có số lần khoác áo nhiều nhất với 902 trận.
Maldini được yêu mến ở khắp nơi như một người hậu vệ vĩ đại và đã đạt đỉnh cao của sự nghiệp. Anh nổi tiếng là người đội trưởng có ảnh hưởng lớn, tính tình trầm tĩnh, cả trong lối chơi và là một hậu vệ hoàn mỹ. Tài năng của anh đã được khẳng định khi anh liên tiếp giành được nhiều giải thưởng quan trọng, có thể kể: Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới năm 1994 do World Soccerbình chọn, thành viên của đội hình thế giới FIFPro năm 2005, danh hiệu hậu vệ xuất sắc nhất UEFA Champions League 2004-2005, đứng thứ hai trong cuộc bình chọn đôi chân vàng năm 2005, một trong 10 cầu thủ xuất sắc nhất năm 2005 do FIFA bầu chọn.
Maldini gia nhập A.C. Milan từ năm 8 tuổi. Ngay lập tức, anh đã chứng minh được tài năng của mình và được các huấn luyện viên tin tưởng thường xuyên đá ở đội trẻ của Milan giai đoạn 1977-1984. Anh là đội trưởng đội trẻ Milan giai đoạn 1982-1984.
Trận đấu đầu tiên của Maldini tại Serie A là vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 đấu với Udinese Calcio. Từ đó đến nay anh có một sự nghiệp sáng chói, dành nhiều thành tích với câu lạc bộ Milan. Maldini là cầu thủ của đội hình "trong mơ" không thể bị đánh bại của A.C. Milan cuối thập kỷ 1980 đầu thập kỷ 1990 (cùng với Giovanni Galli, Mauro Tassotti, Franco Baresi, Alessandro Costacurta, Frank Rijkaard, Carlo Ancelotti, Angelo Colombo, Roberto Donadoni, Ruud Gullit và Marco Van Basten).
Ngày 20 tháng 01 năm 1986, Silvio Berlusconi, một doanh nhân trẻ tuổi và tài năng, quyết định mua lại A.C. Milan lúc đó đang ngập trong nợ nần và đứng trước nguy cơ phá sản. Đó là bước ngoặt trong lịch sử CLB. Thành công của "triều đại Berlusconi" gắn liền với sự nghiệp của chính Paolo Maldini.
Ban đầu Maldini được giao chiếc áo số 26 của Milan. Từ mùa giải 1986-1987, anh được giao chiếc áo số 3 cho vị trí hậu vệ trái và là số áo đấu theo anh cho tới hết sự nghiệp tại CLB. Hiện tại số áo 3 của Maldini đã trở thành số áo bất tử của CLB.
Maldini có được danh hiệu Scudetto ngay trong mùa giải 1988-1989. Anh giành chiếc cúp C1/UEFA Champions League đầu tiên tại sân Nou Camp năm 1989, sau khi đánh bại Steaua Bucureşti với tỷ số 4-0.
Từ năm 1997, Maldini đã được đeo băng đội trưởng của Milan, sau khi một huyền thoại khác của đội bóng là Franco Baresi giải nghệ. Thế hệ của Maldini là thế hệ thành công rực rỡ nhất trong lịch sử của A.C. Milan. Kể từ khi Maldini gia nhập đội hình chính thức của Milan vào năm 1984, A.C. Milan đã giành thêm được 7 Scudetto (trên tổng số 17 Scudetto của CLB), 1 Cúp quốc gia Ý, kỉ lục giành 5 Siêu cúp Quốc gia Italia (Inter Milan san bằng kỉ lục vào năm 2010), 5 Cúp C1/UEFA Champions League (trên tổng số 7 chiếc Cúp của CLB) cùng với đó là 5 Siêu cúp châu Âu, góp phần đưa Milan trở thành 1 trong những CLB vĩ đại nhất thế giới.
Một trong những bất ngờ lớn nhất của sự nghiệp Paolo Maldini cùng Milan đó là chung kết UEFA Champions League 1993-1994 khi thắng đậm đối thủ được đánh giá mạnh hơn là Dream-team F.C. Barcelona của Johan Cruyff tới 4-0.
Maldini cũng thiết lập thành tích mới tại chung kết giải UEFA Champions League 2004-2005 khi có bàn thắng chỉ sau 51 giây trong trận đấu với Liverpool F.C. tại Istanbul và là cầu thủ lớn tuổi nhất ghi được bàn thắng trong một trận chung kết Champions League. Anh đã vượt qua kỉ lục dự 5 trận chung kết cúp C1 của cầu thủ Gento (F.C. Real Madrid) với 6 lần (1989, 1990, 1994, 2003, 2005, 2007) và đạt kỉ lục giành được 5 chiếc cúp.
Maldini đã phá vỡ thành tích của Dino Zoff về số lần thi đấu tại Serie A, với lần thi đấu thứ 571 trong trận đấu với Treviso F.B.C.. Anh cũng chơi trận đấu thứ 800 của mình tại tất cả trận đấu cho A.C. Milan. Tháng 11 năm 2005, anh thông báo kế hoạch giã từ sự nghiệp thi đấu bóng đá chuyên nghiệp của mình sau khi kết thúc mùa giải 2006-2007, tuy nhiên anh có thể quyết định lại nếu anh vẫn duy trì được phong độ của mình. Hợp đồng của anh với Milan kết thúc năm 2008.
Cuối mùa bóng 2007-2008, một mùa bóng bê bết của A.C. Milan, trái với những phát biểu ban đầu của Maldini và dự đoán của báo giới, anh đã ký tiếp 1 hợp đồng với đội bóng sọc đỏ đen đến năm 2009 (41 tuổi).
Ngày 24 tháng 5 năm 2009, Paolo Maldini nói lời chia tay với cổ động viên ở sân San Siro của A.C. Milan sau khi đội bóng thua A.S.Roma 2-3. Ngày 31 tháng 5 năm 2009, Maldini chính thức tuyên bố giải nghệ sau khi A.C. Milan giành chiến thắng 2-0 ngay tại sân Artemio Franchi của ACF Fiorentina. Màn chia tay của Maldini nhận được sự ngưỡng mộ cùng rất nhiều tiếng vỗ tay từ khắp nơi trên khán đài.
(Sưu tầm)
PS: Từ nay topic này sẽ là nơi anh em Cule nói chung, fan khác nói riêng, thảo luận các vấn đề liên quan đến CLB giàu thành tích của Italia A.C Milan
Sửa lần cuối: